Tin chuyên ngành
Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ... bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh, có thể gây thành dịch. Bệnh sởi tuy ít gây tử vong nhưng biến chứng có thể gặp là: viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt và đôi khi viêm não sau sởi, đặc biệt ở trẻ em suy dinh dưỡng...
Hiện nay, tại BVĐK Quang Khởi có dịch vụ tiêm vắc xin chích ngừa sởi cho trẻ em. Hãy đưa trẻ đến BV để được chích ngừa tốt nhất.
Nguyên nhân gây bệnh sởi:
- Lây qua đường hô hấp.
- Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyến…
- Lây gián tiếp ít gặp vì virus sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh.
Bệnh sởi gây ra do siêu vi sởi. Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây sởi nếu chưa chích ngừa. Siêu vi sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân.
Con đường lây lan bệnh sởi
Họ thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện. Khi bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước nhỏ xíu có chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt này có thể rơi xuống một nơi nào đó như mặt bàn, điện thoại…Khi ta sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng, ta sẽ bị lây bệnh.
Một khi siêu vi sởi vào cơ thể bệnh nhân, chúng thường mọc vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơ thể, kể cả hệ hô hấp và da.
Mầm bệnh:
Là virus sởi thuốc họ Paramyxoviridae, virus hình cầu, đường kính 120 – 250nm, sức chịu đựng yếu, dễ bị diệt với các thuốc khử trùng thông thường, ánh sáng mặt trời, sức nóng… Ở nhiệt độ 56 độ C bị diệt trong 30 phút.
Virus sởi có hai kháng nguyên
- Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (Hemagglutinin).
- Kháng nguyên tan hồng cầu (Hemolysin)
Khi virus vào trong cơ thể bệnh nhân sẽ kích thích sinh kháng thể. Bằng kĩ thuật kết hợp bổ thể và kĩ thuật ức chế ngưng kết hồng cầu… giúp cho chẩn đoán bệnh.
Kháng thể xuất hiện từ ngày thứ 2 – 3 sau khi mọc ban và tồn tại lâu dài. Miễn dịch trong sởi là miễn dịch bền vững.
- Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi sởi, những triệu chứng sau đây có thể xảy ra:
1. Sốt
2. Ho khan
3. Chảy nước mũi
4. Mắt đỏ
5. Không chịu được ánh sáng
6. Những nốt nhỏ xíu với trung tâm mầu xanh trắng xuất hiện bên trong miệng nơi gò má. Những nốt này có tên là đốm Koplik.
7. Người mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chập vào nhau
Diễn biến của bệnh sởi:
Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2, 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên, đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sởi. Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 104 hay 105 độ F. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những vết đỏ hơi ngứa này có thể dấn lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước.
Cách phòng chống bệnh sởi:
Có thể nói không có cách nào phòng chống sởi nếu dịch bùng nổ, chỉ có tiêm vacxinsởi là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất, tuy nhiên cũng không đảm bảo phòng bệnh được 100%. Để phòng bệnh sởi hiệu quả, trẻ cần được tiêm 2 mũi vacxin. Mũi thứ nhất tiêm khi trẻ 9 tháng tuổi, giúp trẻ miễn dịch từ 80-85%, mũi thứ hai được tiêm khi trẻ 18 tháng tuổi giúp bảo vệ là 90-95%.
Khi có dịch sởi, cần hạn chế tập trung đông người, nếu dịch bùng phát ở trường học có thể cho trẻ nghỉ học. Ngoài ra nên đảm bảo nơi ở thoáng mát, ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ, tập luyện thể dục đều đặn để tăng sức đề kháng, chống chọi với dịch bệnh.
Hình ảnh virut sởi
Cách điều trị bệnh sởi hiệu quả:
Thông thường, bệnh sởi không có thuốc đặc trị chuyên biệt, hệ miễn dịch sẽ tự loại bỏ virus sởi trong vòng từ 7 đến 10 ngày. Điều trị sởi chủ yếu là điều trị triệu chứng và phòng ngừa biến chứng. Nếu bệnh nhân có các triệu chứng bất thường như co giật hay sốt cao cần đưa ngay tới bệnh viện để theo dõi kịp thời, còn với thể sởi lành tính có thể điều trị ngay tại nhà. Nếu bệnh nhân chỉ mới xuất hiện các hiện tượng sởi nên lập tức cách ly tại phòng riêng, nhưng luôn bảo đảm thoáng mát, đầy đủ ánh sáng và tránh gió lùa.
Giữ vệ sinh sạch sẽ:
- Hàng ngày vệ sinh da dẻ, cơ thể và lau người bằng nước ấm hoặc nước lá lành như: kinh giới, lá mùi, trà xanh…để tránh nhiễm khuẩn, lở loét da; súc miệng bằng nước muối pha loãng. Nhỏ mắt, nhỏ mũi 3, 4 lần/ ngày bằng thuốc nhỏ mắt mũi chuyên dùng.
- Khi tiếp xúc với bệnh nhân cần khẩu trang để tránh bị lây lan. Rửa tay kỹ bằng xà phòng diệt khuẩn sau khi tiếp xúc với người bệnh.
- Vệ sinh: Tẩy trùng sàn nhà, đồ chơi trẻ em, dụng cụ, vật dụng, quần áo của người bệnh. Quần áo của người bệnh thì nên phơi ra nắng. Thường xuyên thay chăn, ga, gối sạch sẽ.
Tham khảo lời khuyên của bác sĩ về loại thuốc nên sử dụng để giảm sốt hoặc giảm đau (paracetamol hoặc ibuprofen). Nếu sốt quá cao có thể dùng khăn ấm để lau người giúp hạ sốt, mặc đồ thoáng mát và tránh gió độc từ bên ngoài.
Ăn uống hợp lý: Cho ăn các thực phẩm nhẹ nhàng, dễ tiêu hoá và đủ chất nhất là những thực phẩm giàu protid và caroten. Với trẻ đang bú, tiếp tục và tăng cường cho bú mẹ để tăng đề kháng.
Cho uống thuốc giảm ho và uống vitamin A: Cho bệnh nhân uống nước ấm có chứa mật ong và chanh để giảm ho, tiêu đờm. Có thể uống sữa, nước cam, nước chanh, oresol để chống mất nước,cung cấp vitamin và tăng sức đề kháng.
Điều trị các triệu chứng giống như cảm cúm: có thể xông hơi bằng cá loại lá như: hương nhu, lá xả,…có thể giúp người bệnh hạ sốt, đỡ các cơn đau và mệt mỏi. Tuy nhiên nếu bệnh nhân là trẻ em thì chỉ cho các em ngồi trong phòng tắm nóng, có nhiều hơi nước. Hoặc có thể đặt khăn ấm lên máy sưởi dầu để không khí trong phòng có nhiều hơi nước hơn, tránh xông trực tiếp có thể làm các em bị bỏng.
Không tự ý dùng thuốc kháng sinh, có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, và chỉ dùng khi có chỉ định của thầy thuốc.
Nếu thấy trẻ có sốt cao và những triệu chứng bất thường khác, cần đưa trẻ đến cơ sở y tế hần nhất.
(Nguồn: tham khảo thông tin y khoa)
Tin liên quan
Hotline: 1900.9228
Email: lienhe@quangkhoi.org
Giấy phép hoạt động khám bệnh,chữa bệnh : 225/BYT - GPHĐ cấp ngày 6/7/2018 của Bộ trưởng Bộ Y tế.